Cao Thị Hiền

Người có quyền yêu cầu chia thừa kế gồm những ai?

Thừa kế là việc chuyển giao tài sản của một người từ sau khi người này chết cho những người khác theo quy định của pháp luật. Việc chia thừa kế có thể thực hiện theo di chúc trong trường hợp có di chúc hoặc chia theo pháp luật trong trường hợp không có di chúc. Chia thừa kế luôn là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Bài viết sẽ làm rõ những người có quyền yêu cầu chia thừa kế để bạn đọc có thể tham khảo.

1. Những người có quyền yêu cầu chia thừa kế

Sau thời điểm người có tài sản chết hoặc trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì những người thừa kế có quyền phân chia di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.  

Trường hợp có di chúc thì việc phân chia di sản thực hiện theo di chúc. Theo đó, việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, cần chú ý trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

Như vậy, nếu trong di chúc không để lại di sản cho con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động thì những người này có quyền khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp người để lại di sản chết không có di chúc hoặc di chúc trái với quy định của pháp luật thì căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Như vậy, khi người có di sản chết không để lại di chúc, những người thuộc cùng một hàng thừa kế sẽ được thừa kế phần di sản bằng nhau, đồng thời có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế ngang nhau trong trường hợp những người này được xác định là người thừa kế hợp pháp.

Những người thừa kế cùng hàng thừa kế thứ nhất sẽ có quyền ưu tiên yêu cầu chia thừa kế. Nếu trường hợp không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất, thì những người thuộc hàng thừa kế thứ hai có quyền yêu cầu chia thừa kế ngang nhau.

2. Thời hiệu yêu cầu chia thừa kế

Ngoài ra, cần chú ý về thời hiệu yêu cầu chia thừa kế, pháp luật quy định từng khoảng thời gian cụ thể đối với bất động sản, động sản là khác nhau. Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Theo quy định này, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản được quy định rõ ràng nhằm bảo đảm tính công bằng và pháp lý. Đối với bất động sản thời hiệu để yêu cầu chia di sản là 30 năm, đối với động sản là 10 năm. Tuy nhiên, nếu hết thời hiệu này mà không có yêu cầu chia di sản, thì di sản đó sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

3. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế

Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định tranh chấp về thừa kế tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Căn cứ Điều 35, 38 Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Nếu di sản thừa kế là động sản thì tòa án có thẩm quyền giải quyết là tòa án nơi đơn vị cư trú làm việc của người yêu cầu giải quyết tranh chấp.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn